Trong suốt nửa đầu thế kỷ 20
Từ thế kỷ 20 đến nay… Xe đạp ngày càng trở thành một công cụ di chuyển quan trọng ở châu Âu trong nửa đầu thế kỷ 20. Nam tước người Đức - Baron von Drais đã có ý tưởng phát minh một dụng cụ dùng sức người và có thể giúp ông di chuyển nhanh quanh khu vườn hoàn gia.Bàn đạp vẫn được lắp trực tiếp vào trục bánh trước và chưa có cơ cấu líp. Mảnh nhưng đủ kiên cố để chịu được trọng lượng thân người. Năm 1930. Nhiều thiết bị khác trên xe đạp được tiếp tục chế tạo và hoàn thiện như hệ thống phanh tay. Các nhà nhà sinh sản nhận thấy rằng nếu bánh xe càng lớn thì một vòng đạp của người điều khiển sẽ đưa chiếc xe đi được quãng đường dài hơn.
Nhà phát minh người Scotland. Những chiếc xe đạp này trở nên rất phổ quát tại châu Âu đặc biệt là tại Anh vào những năm 1950 và luôn được cải tiến Trong suốt những thập niên còn lại của thế kỷ 20.
Mẫu xe đạp có lốp cao su. Nếu bánh trước vấp phải một hòn đá hoặc đang chuyển di xuống một con dốc. Tên gọi hí hước Boneshaker bắt nguồn từ việc bánh xe được làm bằng gỗ trong khi viền bánh xe được chế tác từ kim khí
Tay đua phải dừng lại. Mẫu xe này không được sản xuất đại trà do việc điều khiển khá phức tạp và gặp nhiều khó khăn.
Dây sên được nối giữa dĩa ở trục bánh sau với bàn đạp của người điều khiển. Những năm 1960: Bàn đạp xuất hiện và chiếc xe Boneshaker hay Velocipede Xe đạp Boneshaker tại Châu Âu vào những năm 1868 Sự phát triển tiếp theo của xe đạp là chiếc xe rưa rứa như Laufmaschine của Drais nhưng được trang bị thêm trục khuỷu và bàn đạp lắp trực tiếp vào trục bánh xe trước.
Thời kì sau đó. Lốp xe cũng được thiết kế hẹp hơn giúp giảm ma sát cho phép xe đạp chuyển di trơn tuột và nhẹ nhàng hơn. C. Cháu của nhà phát minh James Starley. Đồng thời. Đây chính là nguyên mẫu của chiếc xe đạp hiên đại. Những năm 1880 - 1899: thời đoạn hoàng kim Năm 1880. Năm 1878
Hồ hết xe đạp tại Mỹ đều được sản xuất dành cho trẻ con. Sữa chữa trở nên tiện lợi hơn. Xe đạp bắt đầu được cải tiến mạnh mẽ với sự phát triển của công nghệ. Ông đã đi được đoạn đường 13 km mà chỉ mất khoảng 1 giờ đồng hồ.
Cả 2 bánh xe đều được trang bị các nan hoa bằng kim loại. Năm 1870. Với các góc cạnh quan trọng là dễ điều khiển. James Starley tiếp kiến phát minh mẫu xe đạp 3 bánh mang tên Salvo. Mảnh cho phép chiếc xe chuyển động mượt mà hơn rất nhiều so với các mẫu xe trước đây. Người ta cũng tìm thấy được mô hình thiết kế khung xe gọi là kiểu "kim cương" với khả năng chịu lực tốt hơn.
Người mua sẽ phải tuyển lựa một chiếc xe với độ lớn của bánh trước hiệp với chiều dài chân của mình để bảo đảm họ có thể dùng được. Cho đến thời khắc ngày nay
Một véc tơ vận tốc tức thời kỷ lục của xe đạp vào thời đó. Thời đoạn này là thời kỳ phát triển hoàng kim trong lịch sử phát triển xe đạp với hàng loạt những cải tiến góp phần hoàn thiện mô hình xe đạp đương đại ngày nay.Giới thiệu vào những năm 1865 với tên gọi là Fast-Foot và gây nên một cơn sốt thời trang khi mọi người đua nhau sở hữu. F. Hệ thống dây sên - dĩa. Kể từ đầu thế kỷ 21. Nhà phát minh người Anh là E. Hệ thống đèn chiếu sáng chạy bằng dinamo gắn trên bánh xe. Xe đạp Kangaroo của Otto và Wallace năm 1878 tội lỗi lớn nhất của các mẫu xe đạp trong thời kỳ này là do chỗ ngồi của người lái quá cao nên trọng tâm trên xe không được phân bố đều.
Đây là chiếc xe đạp được phổ biến rộng rãi trước hết được trang bị hệ thống sên - dĩa đầy đủ nhất. Người điều khiển ngồi ở giữa 2 bánh xe và vận hành xe bằng bàn đạp ở hai bên. Xe đạp an toàn sử dụng dây sên để nối dĩa ở trục bánh sau với bàn đạp của người điều khiển
Xe đạp dần trở thành là một gu phổ biến của nhiều người. Xe được trang bị đầy đủ các bộ phận như phanh.
Mẫu xe này được đưa vào sản xuất hàng loạt và phổ thông một cách rộng rãi. Năm 1876. Nhưng nhu cầu dùng xe đạp lại giảm đi đáng kể tại Mỹ từ năm 1900 đến năm 1910 do sự ra đời của xe hơi. Năm 1874. Ông được cấp bằng sáng chế thương nghiệp cho phát minh này vào năm 1818. Người ta còn đặt cho nó một tên gọi khác là xe lắc xương (Boneshaker). Đến năm 1878.
Nếu muốn thay đổi dĩa xe trong cuộc đua. 2 nhà sản xuất xe đạp đến từ nước Anh là Otto và Wallace phát minh nên mẫu xe đạp 2 bánh mang tên Kangaroo. Hàng nghìn chiếc đã được sản xuất cốt yếu tại thị trường Tây Âu và Bắc Mỹ nhưng vẫn còn một thiếu sót là rất khó để có thể giữ cân bằng khi điều khiển
Sự thăng bằng của xe đạp được xem và mô phỏng bởi các phần mềm máy tính cho phép chế tạo những chiếc xe đạp an toàn với người điều khiển hơn. Đây là chiếc xe đạp trước hết được trang bị dây xích nối bánh răng kép trên bánh xe với nhau.
Kangaroo có bánh trước to hơn bánh sau rất nhiều cho phép nó có thể di chuyển nhanh hơn.
Ông chính là người sáng lập nên công ty Dunlop nổi tiếng chuyên sinh sản lốp xe và các dụng cụ thể thao. Chuyên mục " Mỗi tuần một phát minh " tuần này mời các bạn cùng điểm lại những cột mốc lịch sử quan yếu trong quá trình hình thành và phát triển của xe đạp nhé.
Phát minh của Drais mau chóng bị người dùng từ chối do số lượng các vụ tai nạn ngày một nhiều khiến chính quyền một số tỉnh thành phải cấm dùng loại dụng cụ này. Tháo bánh xe ra để thay đổi chiếc dĩa mong muốn và lắp lại. Những năm 1870: Xe đạp bánh cao (The High Wheel Bicycle) Sự phát triển của trình độ luyện kim thời bấy giờ cho phép tạo ra những chi tiết kim khí nhỏ.
Chiếc xe này được đặt tên là "Ariel" với bánh trước lớn và bánh nhỏ phía sau. Đây là tiền thân của chiếc xe đạp ngày nay. Tổ chức đua xe đạp châu Âu đã cho phép các tay đua sử dụng hệ thống này. Otto chế tạo mẫu xe đạp "dicycle" với hai bánh xe có kích thước bằng nhau được đặt đồng thời cạnh nhau
Đến những năm 1920. Mẫu xe đạp thể thao của BMW ra mắt năm 2012 Nguồn: Tổng hợp. Khung xe được chế tạo bằng các vật liệu khác nhau để giảm trọng lượng nhưng vẫn đảm bảo độ bền cũng như các đề nghị về khí động họ. An toàn. Chiếc xe nặng 22 kg với cấu tạo gồm 2 bánh xe bằng gỗ được bọc sắt có kích tấc bằng nhau và được lắp thẳng hàng trên một chiếc khung gỗ.
F. Vòng đạp nhẹ hơn. Bayliss Thomas phát minh xe đạp "The Bayliss Thomas" với khung xe chế tạo bằng những ống thép rỗng ruột và được trang bị phuộc trước. Cũng chính vì lí do nêu trên mà Boneshaker trong giai đoạn này vẫn chưa được phổ thông rộng rãi. Nhà phát minh người Anh là Harry John Lawson chế tác mẫu xe đạp trước hết có sử dụng dây sên.
Mô hình này được Pierre Michaux - một nhà phát minh người Pháp. Chiếc lốp này cho phép xe đạp vận hành êm ái và nhẹ nhàng hơn trên những con đường mấp mô
Người điều khiển dừng đạp ở bên tương ứng với hướng muốn rẽ. Cùng thời kì đó. Hình ảnh xe đạp an toàn được chế tác vào năm 1879 bởi Lawson. Các cải tiến nói trên cũng tạo điều kiện cho việc bảo trì. Otto năm 1880 Năm 1885. Xe đạp Ariel năm 1870 với đặc trưng bánh trước to và bánh sau nhỏ.
Năm 1879. Ông chính là người phát minh ra cơ cấu dây xích nối 2 bánh răng lắp trên xe đạp với nhau. Dùng sức người "đạp và chạy". Để trở nên một dụng cụ liên lạc hoàn thiện như ngày nay.
Đã chế tác ra mẫu xe đạp an toàn với 2 bánh xe có kích tấc bằng nhau được lắp thẳng hàng trên một khung kim khí rỗng. Dễ điều khiển và vận hành một cách an toàn
Mẫu xe đạp mang tên Rover do John Kemp Starley (cháu của James Starley) phát minh năm 1885.Tuy nhiên. Điều này cực kỳ mất thời kì. Rưa rứa Boneshaker. Mẫu xe này được gọi là xe đạp an toàn. James Starley (người thứ 3 từ phải qua) cùng mẫu xe đạp Salvo trong bức ảnh được chụp vào năm 1977. Lốp xe được chế tác từ cao su cứng và đặc ruột cộng với các tăm dài. Những chiếc xe đạp đầu tiên được sản xuất công nghiệp với số lượng lớn tại Mỹ bởi công ty Pope thuộc sở hữu của Albert Augustus Pope.
Xe đạp trở thành dụng cụ liên lạc phổ biến đối với xã hội trung và thượng lưu tại châu Âu và Bắc Mỹ trong nửa cuối những năm 1890. Bánh trước có thể lái được và bánh sau được trang bị một chiếc phanh. Mẫu xe đạp của E. Tại châu Âu
John Kemp Starley. Mẫu xe này trở nên rất phổ biến do có giá thành rẻ.
Năm 1817. Hệ thống nhiều dĩa có thể luân chuyển khi đang xe đang chạy Khoảng giữa thế kỷ 20. Trong thiết kế. Trước đó. Hệ thống này giúp các tay đua hà tằn hà tiện được rất nhiều thời kì khi muốn thay đổi tốc độ của chiếc xe.
Đặc biệt là chấn thương đầu. Chiếc xe được vận hành bằng cách người điều khiển sẽ đẩy chân xuống đất ra phía sau và nó sẽ tiến về phía trước.
Sau đó. Sự kết hợp này khiến việc chạy xe trên những con đường gồ ghề trở thành cực kỳ khó chịu. Khoảng 2 đến 3 năm sau đó
John Dunlop phát minh ra lốp xe khí nén ứng dụng cho xe đạp.Thời bấy giờ. Năm 1888. Xe đạp vẫn luôn được cải tiến song song với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật để đáp ứng các yêu cầu càng ngày càng khắt khe hơn của người dùng.
Các công nghệ mới được vận dụng như chế tác các chi tiết bằng sợi cacbon hay hệ thống tự chuyển đổi líp bằng điện tử khiến chiếc xe đạp ngày càng đương đại hơn.
Cả thảy chiếc xe sẽ trộn về phía trước trong khi chân của người lái bị mắc kẹt vào bàn đạp cộng với việc vị trí điều khiển khá cao nên rất dễ xảy ra những chấn thương nguy hiểm. Ông đã trình làng một chiếc xe "đi bộ" có tên Laufmaschine (trong tiếng Đức có nghĩa là "cỗ máy chạy bằng chân"). Thoải mái và di chuyển nhanh chóng.
Ông được mệnh danh là cha đẻ của ngành công nghiệp sản xuất xe đạp. Khắc phục được những nhược điểm của lốp xe đặc ruột. Dằng xóc giống như vừa đi vừa "lắc xương". Ariel có thể di chuyển với véc tơ vận tốc tức thời 24 km/h
Hiệu quả hơn. Thiết kế lốp xe khí nén và khung xe kiểu "xoàn" đơn giản làm xe đạp có trọng lượng nhẹ giúp vận hành trót lọt. Hệ thống líp xe nhiều dĩa cỏ thể chuyển đổi tương hỗ khi đang chạy được phát triển tại Pháp từ năm 1900 đến 1910 và dần được hoàn thiện theo thời gian. Kích thước 2 bánh bằng nhau được lắp trên khung với "thiết kế kim cương" chính là mẫu xe đạp đầu tiên mặc cả nam và nữ đều có thể dùng một cách tiện lợi.
Mẫu xe đạp Draisine được lưu trữ ở bảo tồn xe 2 bánh tại Đức Laufmaschine còn được gọi với là Draisine (tiếng Anh) hay draisienne (tiếng Pháp) hoặc Hobby Horse (ngựa gỗ) vì nó được chế tác gần như hoàn toàn từ gỗ.
Khi muốn điều khiển xe rẽ trái hay phải. Xe đạp luôn được đấu phát triển cho thích hợp với nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Lên đường từ nhu cầu một mẫu thiết kế xe đạp dành cho đàn bà. Xe đạp vẫn được dùng khôn cùng rộng rãi. Đây chính là hệ thống sên-dĩa hoàn thiện trước tiên trên xe đạp. Trong lần dùng trước nhất vào ngày 12 tháng 6 năm 1817.
Chiếc xe đạp được chế tác hoàn toàn bằng kim khí trước tiên được phát minh bởi hai nhà sản xuất xe đạp là James Starley và William Hillman.
Năm 1817: Cỗ máy đi bộ của Drais - xe đạp được khai sinh Khái niệm trước hết về xe đạp xuất hiện từ đầu thế kỷ 19. Đây cũng là lần trước hết người ta dùng từ Bicyle (xe đạp) để chỉ công cụ chuyển di 2 bánh bằng. Chính vì lí do đó mà các nhà sinh sản đua nhau làm nên những chiếc xe với bánh trước ngày càng to hơn.
C. Xe đạp đã sang trọng một lịch sử phát triển với hàng loạt các cải tiến của nhiều nhà phát minh. Với một khung xe có trọng lượng nhẹ. Thiết kế này cho phép bánh xe quay được 2 vòng khi người điều khiển đạp 1 vòng. Xe đạp dần biến thành một món đồ chơi con nít và vào năm 1940.
John Dunlop (1840 -1921) người phát minh ra lốp xe khí nén.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét